Site banner

Bánh dừa Giồng Luông: Đặc sản mang hương vị quê nhà

Ngày nay, khi các loại bánh trái khác đang "lên ngôi", gia tăng thêm nhiều chất bổ dưỡng khiến người thưởng thức có cảm giác ngầy ngà thì chiếc bánh dừa sẽ đem lại cảm giác nhẹ nhàng, tao nhã từ trong hương vị đến tên gọi của nó.

Bến Tre vùng đất ba dải cù lao, với sông nước hữu tình, miệt vườn trù phú cây trái bốn mùa cho quả ngọt, một vùng đất với nhiều "hào sản" thấm đậm tình người tình đất phương Nam. Con người nơi đây đã cần mẫn gắn bó suốt cuộc đời mình qua bao thế hệ để bám trụ và xây dựng quê hương "xứ dừa" ngày càng phát triển. Trong suốt chặng đường lịch sử, có một loại bánh quê, mộc mạc đơn sơ đã cùng người dân xứ sở này tồn tại: Bánh dừa Giồng Luông. Để rồi cũng từ đó, người khách phương xa ghé thăm không chỉ biết đến xứ dừa với loại nước dừa thơm mát, các sản phẩm mỹ nghệ độc đáo được tạo ra từ cây dừa mà biết đến một loại bánh mang đậm nghĩa tình quê hương xứ sở.

Bánh dừa Giồng Luông, chiếc bánh mang hương vị quê nhà .Ảnh: TL

Giồng Luông thuộc xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre cách thị trấn Thạnh Phú 12 km về hướng Tây Bắc, cách thành phố Bến Tre gần 40 km về hướng Đông Nam. Đại Điền không chỉ nổi tiếng với những chiến công oanh liệt của quân và dân huyện Thạnh Phú nói chung, Đại Điền nói riêng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mà nơi đây còn là nơi xuất quân của tiểu đoàn 307 Anh hùng, nhà cổ Hương Liêm  - một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia mà còn nổi tiếng với chiếc bánh mang đậm hương vị quê nhà - Bánh dừa Giồng Luông.

Theo các bậc cao niên trong vùng, nghề làm bánh dừa ở Giồng Luông ra đời cách nay trên trăm năm, lúc đầu chỉ một số hộ gia đình làm bánh chủ yếu là để ăn trong những ngày lễ tết, hoặc để  biếu người thân, bạn bè cho nên việc làm bánh chỉ mang tính "nữ công gia chánh" trong gia đình. Do đó, khi làm bánh, người dân chú trọng cả chất lượng cũng như hình thức của bánh, nên bánh không chỉ ngon, mà còn đẹp, bánh có thể để vài ba ngày, không bị ôi thiu, không mất đi cái hương vị độc đáo vốn có của nó. Qua thời gian, nghề dạy nghề, người dạy người, bánh dừa Giồng Luông đã được bảo tồn phát triển và vươn xa hơn nữa được nhiều du khách biết đến trở thành một trong những sản phẩm nổi tiếng của tỉnh Bến Tre.

Muốn tạo nên một chiếc bánh dừa ngon thì khâu quan trọng là chọn các nguyên vật liệu cần thiết, nếp được chọn để làm bánh phải là nếp sáp, dẻo và thơm. Ngâm từ  bốn đến năm tiếng, người thợ mới bắt đầu gút nếp, vo nhiều lần để loại bỏ các tạp chất, nếu không bánh sẽ mau thiu. Nếp ấy được cho vào thúng, đặt nơi thoáng gió cho để cho thật ráo. Tên gọi bánh dừa đã gắn với hình ảnh của cây dừa, nên làm bánh này thì không thể thiếu nước cốt dừa, mà dừa chọn phải là dừa vừa tới, không quá khô và quá non. Nước cốt dừa vắt ra được trộn chung vào nếp, thêm ít muối và đường và người thợ phải  trộn đều tay. Bánh dừa thì đa dạng với nhiều loại bánh khác nhau như: bánh dừa đậu xanh, bánh dừa chuối, bánh dừa nước tro, bánh dừa đậu đen,...

Mỗi khi về Đại Điền, huyện Thạnh Phú du khách đều mua bánh dừa Giồng Luông về làm quà biếu người thân, bạn bè. Ảnh: TL

Nếu bánh tét gói bằng lá chuối thì bánh dừa lại được gói bằng lá dừa, cái tên bánh dừa cũng từ đó mà ra. Lá dừa ở đây phải là dừa nước, còn non tơ và thơm mùi lá mới. Chính chiếc lá gói bánh dừa  lại quyết định cả hương vị của chiếc bánh nếu gói bằng thứ lá khác thì chẳng bao giờ có được mùi hương thơm rất đặc trưng ấy của bánh dừa Giồng Luông.  Sau đó, người thợ phải quấn từng lá nồng theo đường êlip, tạo thành chiếc nồng gói bánh. Nghe thì dễ nhưng có mấy ai làm được nồng bởi chỉ người khéo tay và có thâm niên thì xoay nồng mới khéo, đều và đẹp. Kế đến là khâu gói bánh. Nếp được cho từ từ vào nồng, ép chặt, tùy loại nhân mà người ta thêm chuối, đậu xanh, đậu đen vào. Nếp được cho vào vừa đầy và buộc chặt bằng dây lạt hoặc gân lá. Nếu buộc bằng dây nhựa thì  bánh sẽ mất ngon. Buộc bánh cũng phải quen tay không được quá chặt cũng không quá lỏng. Sau đó, bánh được cột thành chùm chuẩn bị đem hấp, lửa hấp bánh phải đều không được quá lớn hoặc quá nhỏ, nước hấp bánh nhớ bỏ vào một ít phèn chua để màu bánh được tươi và đẹp.

Chiếc bánh ngon và giữ được lâu cũng là một bí quyết của người thợ làm bánh, vì vậy du khách phải cất công đến tận các lò làm bánh ở xã Đại Điền, huyện Thạnh Phú. Để làm ra chiếc bánh cho kịp chợ sáng, người thợ phải thức từ tận mười hai giờ khuya để ngâm và đãi nếp, rồi đến nhiều công đoạn khác nữa như: Quấn nồng, gói bánh, buộc bánh và hấp bánh. Ấy mới thấy, muốn làm ra chiếc bánh đâu phải đơn giản, phải kéo tay và tỉ mỉ.  Bánh muốn ngon, phải ăn khi bánh vừa nguội khi được lấy từ lò hấp ra mới cảm nhận hết hương vị vốn có của nó. Khi ấy, nếp mới đủ chắc, dẻo quẹo, hạt đậu đủ bùi, chuối đủ chín, ăn vào có mùi nước cốt dừa thơm béo đến ngất ngây.

Ở xứ cù lao, bánh dừa được bán mọi nơi và nhiều địa phương khác trong tỉnh, nhưng khi có dịp đến với Đại Điền, huyện Thạnh Phú, mua bánh và thưởng thức ngay tại lò thì du khách mới cảm nhận được được hết cái hương vị quê hương thật sự chứa đựng trong từng chiếc bánh mộc mạc làng quê này, vị thơm ngọt của bánh hay vị ngọt ấm tình người dân xứ sở, chắc lòng và ấm áp hương quê.

Ngày nay, người dân Đại Điền cũng không còn quanh năm quanh quẩn ở quê, với cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả, và tất nhiên chiếc bánh dừa Giồng Luông cũng "vượt biên" theo bước chân người. Bánh dừa Giồng Luông trở thành sản phẩm hàng hóa đa dạng về chất lượng, theo những chuyến đò, chuyến xe miền Tây đi đến tận thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh lân cận như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,...

Xã Đại Điền hôm nay đã đổi mới và phát triển, không còn là mảnh đất nghèo nằm nép mình bên dòng sông Hàm Luông, diện mạo nông thôn mới đang thay đổi từng ngày, đời sống nhân dân đã được nâng cải thiện đáng kể nhưng không vì thế mà người ta quên đi cái hương vị nồng nàn của một loại bánh quê đã gắn bó với mảnh đất này gần thế kỷ qua. Trong tim của những người dân xứ sở và du khách thập phương thì hình ảnh chiếc bánh dừa Giồng Luông  vẫn có sức hút kì lạ. Dù đi đâu,  về đâu thì vẫn nhớ cái hương vị mặn mòi, dân dã của chiếc bánh nếp gói bằng lá dừa nước mộc mạc, nhớ cái nghề, cái nghiệp đã gắn bó với người dân nghèo trong những năm gian khó.

Bài, ảnh: Việt Văn