Site banner

Đường lưỡi bò - Một yêu sách phi lý - Kỳ 22

Kỳ 22: “ĐƯỜNG LƯỠI BÒ” TRÊN BIỂN ĐÔNG VÀ LUẬT QUỐC TẾ

  1. Đặt vấn đề

Cuộc tranh chấp Biển Đông vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp Biển Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, vả lại, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà hơn thế nữa, nó còn đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu mỏ.

Cuộc va chạm mới đây giữa một chiếc tàu nghiên cứu hải dương của Mỹ với năm tàu chiến Trung Quốc, sau đó là cuộc khẩu chiến trên các báo của hai bên, phía Mỹ giải thích vùng biển này là biển quốc tế, tàu Mỹ có quyền thực hiện các nghiên cứu biển trong vùng đó, còn Trung Quốc khẳng định đây là vùng biển thuộc chủ quyền của họ. Rồi việc Trung Quốc đã gửi Công hàm lên Liên hợp quốc để phản đối báo cáo về thềm lục địa của Việt Nam cùng Ma-lai-xia, cũng như Báo cáo của riêng Việt Nam. Rồi việc Trung Quốc thi hành Lệnh cấm đánh bắt cá từ ngày 16 tháng 5 năm 2009 bằng cách tăng cường lực lượng tàu như chính xuống Biển Đông, đề xuất của Hải quân Trung Quốc phân chia quyền kiểm soát Thái Bình Dương giữa Trung Quốc và Mỹ, tới tuyên bố của CNOOC ngày 16 tháng 6 năm 2009 sẽ tiến hành khoan sâu thăm dò khai thác trong Biển Đông trong năm 2009. Vấn đề này lại làm nóng lên yêu sách của Trung Quốc về các đảo, đá và vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” gây nhiều tranh cãi.

Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong Biển Đông đã trở thành một trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực do Trung Quốc yêu sách gần 80% Biển Đông là vùng nước lịch sử của họ sẽ có tác động rất lớn đến việc định các đường biên giới biển của khu vực này trong tương lai, và cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền lợi trên biển của Việt Nam. Do đó, nhu cầu nghiên cứu vấn đề này là một vấn đề cần thiết.

  1. Các yêu sách về “đường lưỡi bò”

Yêu sách về “đường lưỡi bò” được đưa ra một cách không chính thức từ hai chính quyền: Một là Trung Hoa dân quốc, sau thất bại năm 1949 phải chạy ra Đài Loan (từ thời điểm này gọi là Chính quyền Đài Loan), và từ chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949 tới nay (gọi tắt là Chính quyền Trung Quốc).

  1. Yêu sách về “đường lưỡi bò” của Trung Hoa dân quốc

Theo một số học giả cả ở Trung Quốc và ở Đài Loan thì năm 1935, để đối phó với yêu sách của Pháp đối với yêu sách của Pháp đối với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa, Trung Hoa dân quốc đã cho xuất bản một bản đồ chính thức đầu tiên là Zhongguo Nanhai gedao yu tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), bản đồ này chưa thể hiện “đường lưỡi bò”. Tháng 02 năm 1947, Bộ Nội vụ đã tiếp tục cho xuất bản Bảng Tài liệu tra cứu tên cũ của các đảo, biển ở Biển Đông, trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau đó, tháng 01 năm 1948, Bộ Nội vụ nước Trung Hoa dân quốc chính thức công bố một bản đồ có tên Nanhai zhudao weizhi tu (Bản đồ các đảo trên Nam Hải), tháng 02 năm 1948 bản đồ này được xuất bản chính thức, trên bản đồ này có xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là “đường hình chữ U”, một số học giả gọi nó là “đường lưỡi bò” bởi nó nhìn giống một cái lưỡi bò liếm xuống Biển Đông, đường này được thể hiện trên bản đồ lúc này là một đường đứt khúc bao gồm 11 đoạn. Trong bản đồ đó, “đường chữ U” hay “đường lưỡi bò” này được thể hiện bao trùm xung quanh cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên Biển Đông, đó là các quần đảo Hoàng Sa (Paracels), Trường Sa (Spratlys) và Pratas (Trung Quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung Quốc gọi là Trung Sa).

“Đường lưỡi bò” này xuất phát từ biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ, chạy xuống phía Nam tương tự như hình dáng của bờ Biển Đông và Đông Nam Việt Nam tới cực Nam của bãi đá san hô Scaborough Shoal (Tăng Mẫu) và sau đó quay ngược lên phía Bắc theo hướng đi song song với đường bờ biển phía Tây Sabah của Ma-lai-xia và Palawan của Phi-líp-pin và quần đảo Luzon, kết thúc tại khoảng giữa eo Bashi nằm giữa Đài Loan và Phi-líp-pin. Đường này được vẽ tùy tiện và không có tọa độ xác định chính xác.

Năm 1988, sau cuộc đụng độ giữa hải quân của Trung Quốc và Việt Nam, một nhóm học giả của Đài Loan đã được tập trung lại để nghiên cứu về vấn đề “vùng nước lịch sử” và bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò”.

Một học giả của Đài Loan là Tống Yến Huy (Yann Huei Song) sau khi tổng kết các quan điểm của các học giả Đài Loan trong nhóm nghiên cứu cho biết có hai nhóm ý kiến về vấn đề nay: Một nhóm cho rằng vùng nước được bao bọc trong “đường lưỡi bò” được coi như là “vùng nước lịch sử” của Trung Hoa dân quốc. Lập luận này được chứng tỏ bởi hai lý do, thứ nhất, khi bản đồ được xuất bản vào năm 1948, không có sự phản đối cũng như không có phản ứng nào được đưa ra, thứ hai, việc yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử đã không vi phạm Điều 4 (1) của Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982 (Công ước Luật Biển 1982). Nhóm thứ hai thì chống lại quan điểm này, họ cho rằng yêu sách vùng nước lịch sử của Trung Hoa dân quốc khó có thể biện minh được. Đó là “đường lưỡi bò” được vạch ra một cách tùy tiện, không thể định vị đường này trên biển vì thiếu hệ thống tọa độ cũng như khái niệm về vùng nước lịch sử đã trở nên lỗi thời, khó có thể sử dụng để trợ giúp cho yêu sách của Chính quyền Đài Loan.

Tuy nhiên, cuối cùng Ủy ban nghiêm cứu về vấn đề này của Đài Loan đã chấp thuận với quan điểm của nhóm đầu tiên.

  1. Yêu sách về “đường lưỡi bò” của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

Trung Quốc đưa ra những yêu sách về “đường lưỡi bò” dựa theo quan điểm của bản đồ xuất hiện “đường lưỡi bò” đầu tiên của Trung Hoa dân quốc năm 1948.

Năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, quốc gia này sau đó thay thế Trung Hoa dân quốc trở thành Thành viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Năm 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “đường lưỡi bò” được thể hiện giống như trên bản đồ trước đó gồm 11 đoạn.

Tuy nhiên, đến năm 1953, bản đồ vẽ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Trong suốt một thời gian dài, mặc dù cho xuất bản bản đồ có thể hiện “đường lưỡi bò” như trên, nhưng cả Chính phủ Trung Hoa dân quốc lẫn Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố hoặc giải thích chính thức gì về “đường lưỡi bò” đó cả.

Năm 2003, Li Jin Ming và Li De Xia của trường Đại học Hạ Môn (Trung Quốc) đã công bố một bài viết đăng trên tạp chí Ocean Development & International Law, tiếp tục trình bày và làm rõ về lập luận đối với “đường lưỡi bò” này. Hai học giả này đã tổng kết một số quan điểm của các học giả Trung Quốc, trong đó hầu hết là khẳng định về chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo và các vùng nước xung quanh các đảo đó nằm trong “đường lưỡi bò”. Các học Trung Quốc này được hai học giả trích dẫn như Cao Chí Quốc (Gao Zhiguo), Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển biển, Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc cho rằng đường này yêu sách sở hữu các đảo nằm bên trong hơn là một đường biên giới biển. Ông ta nhận xét: Mặc dù “Trung Quốc chưa bao giờ yêu sách toàn bộ các cột nước của vùng Biển Đông”, nhưng “tất cả các đảo và vùng nước kế cận trong đường biên giới này phải thuộc quyền tài phán và kiểm soát của Trung Quốc”.

Zou Keyuan cho rằng yêu sách của Trung Quốc không nên xem như yêu sách vùng nước lịch sử theo nghĩa truyền thống mà giống như một dạng yêu sách các quyền chủ quyền và quyền tài phán lịch sử chứ không phải là yêu sách chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Nói cách khác, đây là sự ngụy biện liên hệ “đường lưỡi bò” với các khái niệm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Luật Biển hiện đại.

Tháng 7 năm 1996, Nhà xuất bản Thông tin Kinh tế Hồng Kông cho xuất bản cuốn “The Petropolitics of the Nansa Islands – China’s Indisputable Legal Case” của Phan Thạch Anh (Pan Shi Ying), theo lời của ông ta thì “Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thông qua việc ấn bản các bản đồ này muốn gửi ba thông điệp tới cộng đồng quốc tế:

  1. Khu vực nằm trong đường biên giới này là các đảo, đá và các vùng nước kế cận của chúng đã thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong lịch sử.
  2. Phù hợp với các công ước quốc tế, vị trí và hướng đi của con đường đứt khúc 11 đoạn này (sau thay bằng 9 đoạn) đã được vạch ra theo cách gần như là đường bờ biển của các quốc kế cận. Điều này đã và đang là hợp pháp vào thời gian đó của chiếm cứ, chiếm hữu và quản lý.
  3. Thực tiễn sử dụng các đường đứt khúc hơn là một đường liên tục để đánh dấu một số các khu vực chủ chốt đã chỉ ra thực chất của việc “chưa dứt điểm” để lại những khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai.

Nói cách khác, vùng nước do con đường này bao bọc là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của Trung Quốc. Con đường này chỉ là hình thức, còn danh nghĩa lịch sử của Trung Quốc trên vùng biển này mới là nội dung.

Như vậy, lập luận về chủ quyền đối với các đảo, đá, bãi nằm trong “đường lưỡi bò” cũng như bản chất pháp lý của “đường lưỡi bò” của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đề bắt nguồn từ bản đồ đầu tiên thể hiện đường này của Trung Hoa dân quốc trước đó, tuy nhiên quan điểm của họ về tính chất pháp lý của “đường lưỡi bò” này như thế nào lại có nhiều quan điểm khác biệt.  

Bộ Ngoại giao - UB Biên giới Quốc gia