Kỳ 26: Công hàm của Phi-líp-pin
- Nhóm đảo Kalayaan KIG là một phần không tách rời của Phi-líp-pin, rằng nước này có chủ quyền và quyền tài phán với các đặc trưng địa chất trong Nhóm đảo Kaylayaan KIG đó;
- Phi-líp-pin, theo nguyên tắc đất thống trị biển, thực hiện chủ quyền và quyền tài phán một cách cần thiết trên vùng nước xung quanh hoặc kế cận đối với mỗi đặc trưng địa chất liên quan trong Nhóm đảo Kaylayaan KIG theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS). Phạm vi của vùng nước kế cận các đặc trưng địa chất có liên quan được định nghĩa và xác định theo UNCLOS, đặc biệt Điều 121 Chế độ các đảo;
- Chính vì các vùng nước kế cận các đặc trưng địa chất có liên quan được định nghĩa và là đối tượng của các tiêu chuẩn pháp lý và kỹ thuật nên yêu sách của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại hai Công hàm số CML/17/2009 và CML/18/2009 ngày 07 tháng 5 năm 2009 “đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và thềm lục địa của chúng” bên ngoài các đặc trưng địa chất nói trên trong Nhóm các đảo Kaylayaan KIG và các vùng nước kế cận của chúng sẽ “không có cơ sở theo luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS. Đối với các khu vực này, chủ quyền, quyền tài phán hay quyền chủ quyền, trong trường hợp này, nhất thiết quy thuộc hoặc thuộc quốc gia ven biển thích hợp hoặc quốc gia quần đảo Phi-líp-pin – các vùng nước cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng thuộc về quốc gia đó hoặc theo bản chất pháp lý của lãnh hải, hoặc của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, hoặc của thềm lục địa phù hợp với các Điều 3, 4, 55, 57 và 76 của UNCLOS”.
Phân tích ba điểm đã nêu trong Công hàm ngày 05 tháng 4 năm 2011 của Phi-líp-pin, có thể đi đến những nhận xét sơ bộ sau:
- Phi-líp-pin tái khẳng định chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với các đặc trưng địa chất Nhóm đảo Kaylayaan KIG được coi là một phần không tách rời của Phi-líp-pin. Tuy nhiên tuyên bố lần này có những khác biệt với các văn bản trước. Thứ nhất, trong Sắc lệnh năm 1978, Phi-líp-pin yêu sách: “nhóm đảo KIG … bao gồm tất cả đáy biển, lòng đất, dưới đáy biển, rìa lục địa và vùng trời sẽ thuộc và là đối tượng của chủ quyền của Phi-líp-pin. Khu vực này tạo thành một quận riêng và tách rời của thủ phủ của tỉnh Palawan và được biết với tên gọi Kalayaan”, nghĩa là toàn bộ các đảo và các vùng nước nằm trong ranh giới KIG tự vạch với đầy đủ các tọa độ. Công hàm ngày 05 tháng 4 năm 2011 chỉ yêu sách chủ quyền của các đảo đá như một phần không tách rời của Phi-líp-pin. Vấn đề vùng nước được tách rời ra và theo logic của những điểm tiếp theo, sẽ chỉ có một phần vùng nước trong ranh giới cũ của KIG chứ không phải toàn bộ vùng nước trong đó được yêu sách. Điều này được bổ sung bằng điểm 2 của Công hàm giúp phân biệt hai vấn đề: Chủ quyền và quyền tài phán đối với các đặc trưng địa lý và chủ quyền, quyền tài phán và quyền chủ quyền đối với các vùng biển. Nó sẽ giúp cộng đồng thế giới hiểu rõ hơn về hai dạng tranh chấp đảo và biển ở Biển Đông mà Phi-líp-pin là một bên yêu sách. Thứ hai, thuật ngữ “đảo” trong Sắc lệnh 1978 đã được thay bằng “đặc trưng địa chất” có thể hiểu bao gồm đảo trong Điều 121 của UNCLOS. Thứ ba, quốc gia quần đảo này không nhắc đến các lý do về tính tiếp giáp hay an ninh quốc phòng cơ sở cho yêu sách của mình đối với các vùng nước như trong Sắc lệnh 1978. Thứ tư, ranh giới của KIG cũng không được nhắc lại. Điều này sẽ liên quan đến phân tích trong điểm 2 tiếp theo.
- Phi-líp-pin đã có bước chuyển khi nhấn mạnh nguyên tắc “đất thống trị biển” để yêu sách các vùng biển. Nguyên tắc này đã được khẳng định bởi Tòa án quốc tế trong Vụ thềm lục địa Biển Bắc năm 1969 và thực tiễn tài phán cũng như thực tiễn quốc tế. Nó cũng được thể hiện rõ trong tinh thần của Điều 2, 55, 76 của UNCLOS. Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra vùng biển tiếp liền mà phạm vi vùng biển đó do UNCLOS quy định với sự thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế. Có nghĩa chỉ khi quốc gia xác lập được chủ quyền trên đất thì chủ quyền đó mới mang lại các quyền được mở rộng ra trên biển mà không phải ngược lại: Vẽ một đường yêu sách trên biển và cho rằng tất cả những gì trong đó là thuộc chủ quyền của mình. Các vùng biển xung quanh hoặc kế cận với các đặc trưng địa chất trong quần đảo Trường Sa là lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận của các Bên tranh chấp khi xác định quy chế của từng đảo đá theo Điều 121 của UNCLOS. Ngay trong phần mở đầu của điểm 2 Công hàm, Phi-líp-pin nói về vùng nước tiếp giáp của các đảo và các đặc trưng địa chất (ở đây là cách ám chỉ các đá theo Điều 121.3 của UNCLOS và các bãi cạn nửa nổi nửa chìm?). Tiếp đó việc sử dụng các từ “vùng nước xung quanh” và “vùng nước tiếp giáp”. Từ thực tế quần đảo Trường Sa, nếu đảo đá muốn có vùng nước xung quanh trọn vẹn thì đó chỉ có thể là lãnh hải 12 hải lý. Khái niệm “vùng nước tiếp giáp” ở đây có thể được hiểu là lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế tiếp giáp với các đảo tùy theo từng trường hợp và không phải là vùng nước xung quanh. Như vậy ngay trong ranh giới cũ của KIG mà Manila yêu sách chủ quyền sẽ có khả năng giữa các đảo đá có tồn tại các vùng biển thuộc chủ quyền (lãnh hải), quyền chủ quyền hoặc quyền tài phán (đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa) của một (hay nhiều) quốc gia ven biển khác. Một cách đơn giản, Công hàm Phi-líp-pin thể hiện quan điểm tách biệt hai dạng tranh chấp: Tranh chấp chủ quyền và tranh chấp vùng biển. Trong tranh chấp vùng biển, tùy thuộc vào quy chế đảo mà các bên có thể chấp nhận sẽ tồn tại ba khả năng: 1) Các đảo đá của KIG chỉ có lãnh hải 12 hải lý; 2) Các đảo đá này có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng; 3) Một số đảo đá chỉ có lãnh hải và một số đảo khác có thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Từ đó, các đảo ở KIG có thể được gộp vào đường cơ sở quần đảo mở rộng của Phi-líp-pin hoặc chúng được tách riêng và quản lý theo quy chế đảo hoặc đá theo Luật đường cơ ngày 10 tháng 3 năm 2009 tùy thuộc từng đặc trưng địa chất này có được chỉ lãnh hải 12 hải lý hay có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý hoặc thềm lục địa riêng. Là quốc gia quần đảo duy nhất trong tranh chấp và lại ở gần các vị trí đảo tranh chấp nhất. Phi-líp-pin có lý do để tận dụng vị thế đó nhằm kéo các đặc trưng địa chất KIG vào đường cơ sở quần đảo. Thế nhưng nếu theo đúng các quy định pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS về đường cơ sở quần đảo thì tỷ lệ nước trên đất của KIG sẽ lớn hơn 9:1 và sẽ làm sai lệch tỷ lệ nước/đất của đường cơ sở tuyên bố năm 2009. Thể hiện theo điểm 2 sẽ giúp Phi-líp-pin trang trải được những cuộc tranh cãi nội bộ, mâu thuẫn giữa tình cảm chủ nghĩa dân tộc và lý trí cần tuân thủ UNCLOS. Chấp nhận nguyên tắc đất thống trị biển có nghĩa là Phi-líp-pin phủ nhận tất cả các đường yêu sách không dựa trên các quy định pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS. Điều này đúng với “đường yêu sách lưỡi bò” của Trung Quốc cũng như đường yêu sách của Ma-lai-xia và chính đường ranh giới KIG của Phi-líp-pin. Các đường này là không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Đến đây có thể hiểu tại sao Phi-líp-pin không nhắc lại ranh giới KIG mà chỉ là các địa chất trong KIG. Tuy nhiên, sẽ có sự mâu thuẫn trong điểm 1 và 2 của Phi-líp-pin. Đưa ra ranh giới là một biện pháp kỹ thuật để nêu yêu sách các đặc trưng địa chất trong phạm vi đó mà không mà không cần phải liệt kê tên từng đảo đá và quy chế của chúng. Bác bỏ ranh giới thì đặc trưng địa chất cụ thể nào Manila yêu sách vẫn sẽ là câu hỏi. Khác với Việt Nam và Ma-lai-xia gián tiếp thể hiện các đặc trưng địa chất của quần đảo Trường Sa nên có lãnh hải 12 hải lý, Manila vẫn duy trì một sự không rõ ràng nhằm trù tính cho những bước đi chưa hình dung được trong tương lai. Song việc tuân thủ nguyên tắc “đất thống trị biển” đã có thể coi là một bước tiến rất gần với nguyên tắc xác lập chủ quyền bằng chiếm hữu thực tế và tinh thần duy trì status quo trong Tuyên bố DOC 2002 giữa ASEAN-Trung Quốc vì ổn định, hòa bình, và hợp tác phát triển ở Biển Đông.
- Trong điểm 3 của Công hàm, Phi-líp-pin dẫn ra kết luận logic mà chúng ta có thể suy ra được ngay từ điểm 2. Nếu theo đúng luật quốc tế và UNCLOS thì “đường đứt khúc 9 đoạn” và mọi đường yêu sách khác không đáp ứng các tiêu chuẩn pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS đều không có cơ sở pháp lý để tồn tại. Công hàm nhắc đến hiệu quả của kết luận này “đối với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và thềm lục địa của chúng bên ngoài các đặc trưng địa chất nói trên trong Nhóm các đảo Kalayaan KIG vùng nước kế cận của chúng”. Điều này không có nghĩa là Phi-líp-pin chỉ phản đối một phần “đường lưỡi bò” liên quan trực tiếp đến Nhóm đảo KIG mà toàn bộ “đường lưỡi bò” trong Biển Đông. Do chưa thể xác định được tên cụ thể của các đặc trưng địa chất trong ranh giới cũ của Nhóm đảo KIG cũng như quy chế của các đặc trưng địa chất này (chỉ có lãnh hải, hay có lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng) nên vấn đề phân định biển giữa các quốc gia ở Biển Đông cũng chưa thể giải quyết, Công hàm của Phi-líp-pin không nói đến hiệu lực của các đặc trưng địa chất “nằm ngoài KIG” như đảo Trường Sa. Tuy nhiên trong logic của nguyên tắc “đất thống trị biển” và các yêu cầu pháp lý và kỹ thuật của UNCLOS mà Phi-líp-pin thừa nhận trong điểm 1 và 2 thì đảo Trường Sa cũng là một đặc trưng địa chất giống như các đặc trưng địa chất khác của quần đảo và phải được xem xét theo quy chế của Điều 121.3. Trong trường hợp tối thiểu các đảo đá ở quần đảo Trường Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý thì các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo trong khu vực này sẽ phải bàn nhau về việc xác định hay phân chia ranh giới ngoài thềm lục địa có khả năng mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở của quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo hoặc 100 hải lý tính từ tính từ đường đẳng sâu 2.500 m. Trong trường hợp này, Phi-líp-pin sẽ hơi bị yếu thế do sự hiện diện của máng sâu Palawan ở phía Tây. Trong trường hợp tối đa, một số đảo có thể có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa thì việc phân định biển sẽ phải tính đến khoảng cách từ điểm đó đến bờ biển của quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo tùy thuộc đảo đó được xác định chủ quyền thuộc bên nào. Các vùng biển này có bản chất pháp lý từ nguyên tắc “đất thống trị biển” phù hợp với các Điều 3,4 (Lãnh hải), 55, 57 (Đặc quyền kinh tế) và 76 (Thềm lục địa). Việc phân định không thể được tiến hành từ những đường yêu sách không có cơ sở pháp lý từ nguyên tắc “đất thống trị biển” như “đường lưỡi bò”. Vì vậy, Phi-líp-pin khẳng định các vùng biển này “nhất thiết quy thuộc hoặc thuộc quốc gia ven biển thích hợp hoặc quốc gia quần đảo Phi-líp-pin - các vùng nước cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng thuộc về quốc gia đó hoặc theo bản chất pháp lý của lãnh hải, hoặc của vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, hoặc của thềm lục địa phù hợp với các Điều 3, 4, 55, 57 và 76 của UNCLOS”. Cách thể hiện ở điểm 3 cũng cho thấy Phi-líp-pin hoàn toàn để ngỏ khả năng có thể tham gia hay tự đệ trình hồ sơ ranh giới thềm lục địa ở Biển Đông và đàm phán phân định biển với các nước trên cơ sở thỏa thuận duy trì nguyên trạng.