Site banner

Đường lưỡi bò - Một yêu sách phi lý - Kỳ 27

Kỳ 27: Công hàm của Trung Quốc

Công hàm ngày 14 tháng 4 năm Trung Quốc gồm ba đoạn chính:

  • Khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo trong biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, và được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy của chúng. Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý phong phú. Nội dung Công hàm số 000228 ngày 05 tháng 4 năm 2011 của Phi-líp-pin là hoàn toàn không thể chấp nhận đối với Chính phủ Trung Quốc.
  • Cái gọi là Nhóm đảo Kalayaan KIG mà Phi-líp-pin yêu sách thực tế là một phần quần đảo Nam Sa của Trung Quốc. Trong hàng loạt các Hiệp ước quốc tế xác định giới hạn lãnh thổ của Cộng hòa Phi-líp-pin và pháp luật quốc gia của Cộng hòa Phi-líp-pin cho đến trước những năm 1970 chưa bao giờ yêu sách quần đảo Nam Sa hoặc bất kỳ một phần nào của quần đảo. Từ những năm 1970, Cộng hòa Phi-líp-pin bắt đầu xâm lược và chiếm đóng một số đảo và đá thuộc quần đảo Nam Sa của Trung Quốc và đưa ra những yêu sách lãnh thổ liên quan mà Trung Quốc cực lực phản đối. Việc chiếm đóng một số đảo và đá của quần đảo Nam Sa cũng như các hành vi liên quan khác đã xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Theo học thuyết pháp lý “ex injuria jus non oritus”, Cộng hòa Phi-líp-pin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ họ. Hơn nữa, theo nguyên tắc pháp lý “đất thống trị biển”, yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể không thể làm xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc qua khác.
  • Từ những năm 1930, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đã được xác định rõ ràng. Hơn nữa, theo các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1998), quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Về mặt cấu trúc Công hàm, Phái đoàn Trung Quốc cũng đưa ra ba đoạn đối với ba đoạn trong Công hàm của Phi-líp-pin. Đoạn 1, cả hai bên đều khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của mình. Đoạn 2 tranh luận về các nguyên tắc pháp lý “đất thống trị biển” và “không xâm phạm”. Đoạn 3, cả hai bên đều dựa vào Luật Biển để xác định quy chế các đảo đá.

Về nội dung, trong khi Phi-líp-pin lập luận theo Luật Biển thì những đường như “đường đứt khúc 9 đoạn” là không có cơ sở theo luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS, thì Trung Quốc lại nhắc đến các quyền lịch sử và tìm cách làm hài hòa giữa quyền lịch sử với Luật Biển hiện đại bằng cách tuyên bố quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đây có thể coi là một điểm mới nếu chú ý ngôn từ trong Công hàm lần này khác hẳn với những tuyên bố khuôn mẫu trước kia: “Nam Sa quần đảo là “một phần lãnh thổ Trung Hoa từ thời xa xưa và Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo cũng như các vùng biển xung quanh nó”. Trong khi Phi-líp-pin phản đối đích danh “đường đứt khúc 9 đoạn” thì Công hàm Trung Quốc không có một chữ nào nói đến đường trên ngoài câu: “Chủ quyền, các quyền và quyền tài phán liên quan của Trung Quốc tại Biển Nam Trung Hoa được hỗ trợ bằng các bằng chứng lịch sử và pháp lý phong phú”. Nếu cứ như Công hàm thì “Từ những năm 1930, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng. Quần đảo Nam Sa do đó đã được xác định rõ ràng”. Các khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa lúc đó còn chưa tồn tại. So sánh Công hàm ngày 07 tháng 5 năm 2009 và Công hàm ngày 14 tháng 4 năm 2011 của Phái đoàn Trung Quốc lại càng thấy hai Công hàm này mâu thuẫn nhau. Công hàm ngày 07 tháng 5 năm 2009 đòi hỏi “đối với chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng (xem bản đồ kèm theo)” tức theo “đường lưỡi bò”. Công hàm ngày 14 tháng 4 năm 2011 thì lờ “đường lưỡi bò” đi mà cho rằng quần đảo Nam Sa có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo UNCLOS. Nếu phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa là “đường lưỡi bò” thì có chuyện ngược đời là đi xác định các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa bên trong vùng nước mà Bắc Kinh coi như là nội thủy. Hay các đảo trong trong quần đảo Nam Sa mà Trung Quốc yêu sách có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nhưng không vượt quá phạm vi “đường lưỡi bò”? Hay cả quần đảo Nam Sa được coi là một tổng thể để đòi hỏi vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa như một quốc gia quần đảo? Hay phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa là “đường lưỡi bò” và sẽ tiếp tục đòi hỏi  từ đó 200 hải lý đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cứ theo lập luận này thì cả thành phố Hồ Chí Minh, Manila và Kuala Lumpur rồi tới Natuna đều rơi vào vòng ảnh hưởng của “đường lưỡi bò” và “các vùng biển liên quan”. “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc từ 11 đoạn rồi 9 đoạn, từ yêu sách bao gộp cả Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), Trung Sa (bãi ngầm Macclefield), Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam) bây giờ lại coi là phạm vi địa lý của quần đảo Nam Sa. Không ai có thể hiểu được các Công hàm này trừ khi tác giả của nó giải thích. Việc hai Công hàm trong vòng hai năm có những nội dung mâu thuẫn nhau cho thấy chính bản thân người Trung Quốc còn lẫn lộn và đang tự mâu thuẫn với chính mình, không biết giải thích thế nào về “đường lưỡi bò” cho có lý. Hay đây là lập trường nhất quán cố tình tạo lẫn lộn, áp dụng một cách tùy tiện lúc theo luật biển, lúc theo yêu sách lịch sử mơ hồ theo kiểu chiến thuật mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột. Một chiến thuật mập mờ thường hay được sử dụng để buộc dư luận phải “tin” vào những điều vô lý? Lập trường không nhất quán, chỉ sử dụng sức mạnh, nói lấy được thật khó gây được lòng tin và hình ảnh tốt đẹp trong cộng đồng quốc tế.

Rõ ràng, việc tự vẽ một đường yêu sách không đáp ứng bất kỳ một tiêu chuẩn pháp lý hay kỹ thuật nào để yêu sách chủ quyền các đảo trong đó rồi tiếp tục đòi hỏi các vùng biển liên quan là sự cố tình áp dụng sai nguyên tắc “đất thống trị biển”. Hơn nữa cũng nên nhắc lại rằng Công hàm ngày 29 tháng 9 năm 1932 của Phái đoàn Ngoại giao Trung Quốc tại Paris còn tuyên bố các đảo Tây Sa “tạo thành cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc”. Vậy làm sao có thể nói như trong Công hàm ngày 14 tháng 4 năm 2011 là “Từ những năm 1930, Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần công bố phạm vi địa lý quần đảo Nam Sa và tên các thành phần của chúng”. Cũng không thể nói bằng chứng lịch sử và pháp lý tại đây vì Việt Nam mới là quốc gia có những bằng chứng về hoạt động Nhà nước của Đội Hoàng Sa sớm nhất trong khu vực quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Khác với Phi-líp-pin sử dụng khái niệm các “đặc trưng địa chất” (được hiểu bao gồm đảo, đá và bãi cạn nửa nổi nửa chìm – island, rocks, reefs and shoals), Công hàm của Trung Quốc lần này chỉ nói đến “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối với các đảo (islands) trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận”. Trong đoạn 2, khi nhắc đến sự xâm lược của Cộng hòa Phi-líp-pin, Công hàm có dùng thuật ngữ “đảo và đá” (islands and reefs) nhưng khác với Phi-líp-pin đề xuất áp dụng Điều 121.3 của UNCLOS về quy chế đảo hay đá thì Công hàm của Trung Quốc cho rằng “quần đảo Nam Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng yêu sách “được hưởng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy của chúng”. Điều này được củng cố thêm bằng việc dẫn trong đoạn 3 về “các điều khoản liên quan của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 cũng như Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1998)”. Liệu có phải Trung Quốc cho rằng dù đảo hay đá thì các đảo đá ở Trường Sa đều có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa? Vậy UNCLOS (Điều 121.3) ở đây có giá trị gì với các quốc gia thành viên? Cũng nên nhắc lại ở đây Công hàm ngày 08 tháng 7 năm 2010 của In-đô-nê-xi-a, một nước không tranh chấp gì ở Biển Đông đã đưa ra những bằng chứng về quan điểm chính thống của các đại diện Trung Quốc phát biểu tại các diễn đàn về Công ước Luật Biển năm 1982 về quy chế của các đảo đá không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng. Tại khóa họp lần thứ 15 của Cơ quan quyền lực đáy đại dương tại Kingston, Jamaica tháng 6 năm 2009, Đại sứ Chen Jinghua, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc đã tuyên bố: “Yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ các đảo đá… là ảnh hưởng đến các nguyên tắc của Công ước Luật Biển và đến quyền lợi chung của cộng đồng quốc tế”. Trưởng đoàn Trung Quốc còn viện dẫn lời của Đại sứ Avid Pardo (người đã đưa ra khái niệm vùng đáy biển di sản chung của loài người trong Công ước Luật Biển) để lời tuyên bố của mình thêm sức mạnh: “… nếu quyền tài phán 200 hải lý được dựa trên quyền sở hữu các đảo không người ở, xa xôi hoặc rất nhỏ thì hiệu quả của việc quản lý quốc tế các vùng đại dương bên ngoài quyền tài phán quốc gia sẽ bị tổn hại nặng nề”. Tuyên bố của Phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị các nước thành viên Liên hợp quốc lần thứ 19 từ ngày 22-26 tháng 6 năm 2009 tại New York cũng khẳng định “theo Điều 121 của Công ước Luật Biển, các đảo đá không thích hợp cho con người ở hoặc không có một đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng”. Những lời tuyên bố của các đại diện toàn quyền của Trung Quốc tại các diễn đàn quốc tế chỉ có thể được hiểu là chúng cũng được áp dụng phù hợp với tình hình Biển Đông và các đảo đá nhỏ không người ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng trong Biển Đông cũng không có quyền được có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Việc cho phép sử dụng các đảo đá không người ở, ở xa lục địa và nằm giữa biển như điểm cơ sở để đòi hỏi các vùng biển là tổn hại các nguyên tắc cơ bản của Công ước Luật Biển cũng như xâm phạm đến các quyền lợi chính đáng của cộng đồng quốc tế. Phái đoàn Thường trực của In-đô-nê-xia tại Liên hợp quốc kết luận bản đồ “đường đứt khúc 9 đoạn” trong Công hàm ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Phái đoàn Thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc hoàn toàn không có căn cứ pháp lý quốc tế và đi ngược lại với các quy định của UNCLOS. Trong quan hệ với Nhật Bản là một nước lớn, Trung Quốc đòi các đá chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Trong Biển Đông, giữa các nước nhỏ, yếu, Bắc Kinh đòi cả quần đảo có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cộng đồng quốc tế buộc phải đặt câu hỏi liệu có chính sách phân biệt đối xử mà không cần phải dựa vào luật biển không hay Trung Quốc có một tiêu chuẩn kép về quy chế các đảo đá? Thực tiễn quốc tế và các phán quyết của các Tòa án và Trọng tài quốc tế cho thấy các đảo đá có những điều kiện tương tự như các đảo đá trong Biển Đông, nếu áp dụng đúng Điều 121.3 của UNCLOS thì chỉ được hưởng các vùng biển không mở rộng quá mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia ven biển, ảnh hưởng an ninh hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế, tiếp tục duy trì nguy cơ xung đột ở mức cao. Về quy mô, kích thước, điều kiện sinh sống hay đời sống kinh tế riêng chúng cũng không thể được coi có cùng hiệu lực pháp lý trong phân định với lãnh thổ đất liền.

Công hàm Trung Quốc kết tội Phi-líp-pin đã “xâm lược” các đảo và đá của quần đảo Nam Sa thuộc Trung Quốc nên không thể viện dẫn nguyên tắc “đất thống trị biển” để đòi hỏi quyền chủ quyền đối với các vùng biển kế cận. Trung Quốc dẫn học thuyết pháp lý “ex injuria jus non oritus” để cho rằng Cộng hòa Phi-líp-pin không có cách nào viện dẫn sự chiếm đóng bất hợp pháp đó để hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ của họ. Theo định nghĩa của luật quốc tế, xâm lược là một hành vi sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vậy việc sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực bất hợp pháp của Trung Quốc vào các năm 1974, 1988 và 1995 để chiếm đoạt các đảo đã có chủ, hậu thuẫn cho các yêu sách lãnh thổ có nên được áp dụng học thuyết pháp lý “ex injuria jus non oritus” không? Khi công hàm ngoại giao tuyên bố “theo nguyên tắc pháp lý ”đất thống trị biển”, yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển không thể làm xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác”, Phái đoàn Thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc cũng cố tình quên mất sự thật là các yêu sách theo Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp lãnh hải (1992), Luật về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1998)” đang xâm hại đến các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo UNCLOS cũng như chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác đã thực hiện chiếm hữu thực sự, hòa bình, không có tranh chấp trong thời gian dài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn nữa, thật khó có thể chấp nhận việc viện dẫn luật quốc gia để giải quyết một tranh chấp quốc tế. Ngoài ra, nếu theo đúng luật thì “đường lưỡi bò” chỉ mới được Phái đoàn Trung Quốc nêu ra chính thức lần đầu tiên trong Công hàm ngày 07 tháng 5 năm 2009, một văn bản thấp hơn luật rất nhiều.

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Hai Công hàm của Phi-líp-pin và Trung Quốc đều vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo. Song nhìn góc độ tích cực thì Công hàm ngày 05 tháng 4 năm 2011 của Phái đoàn Phi-líp-pin đã đóng góp lớn trong bác bỏ mọi đường yêu sách quá đáng không nên cơ sở UNCLOS, đặc biệt là yêu sách “đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Công hàm của Phái đoàn Trung Quốc thể hiện tính răn đe, cứng rắn của một nước lớn. Các lập luận bảo vệ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc là mâu thuẫn, mập mờ, cố tình lẫn lộn. Công hàm không làm cho người đọc hiểu rõ thêm về lập trường pháp lý của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông, về cách hiểu “đường lưỡi bò” ngoài việc Phái đoàn Trung Quốc chính thức yêu sách quần đảo Trường Sa có vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngược lại, nó cho thấy một sự mập mờ cố ý, sử dụng cả những yêu sách lịch chưa được kiểm chứng lẫn luật biển hiện đại một cách tùy tiệnn để bảo vệ một yêu sách quá đáng. Giống như thủ tục trước các cơ quan tài phán quốc tế, các bên lần lượt chính thức thể hiện quan điểm của mình về chủ quyền, về quy chế đảo trước Liên hợp quốc. Cộng đồng quốc tế đã có tương đối dữ liệu để thể hiện quan điểm của mình. Dù còn có những khác biệt, trong tất cả các Công hàm đã trình lên Liên hợp quốc về vấn đề này đều có một điểm chung không thể phủ nhận: Các bên đều viện dẫn UNCLOS. Cuộc chiến pháp lý mới liệu có góp phần thúc đẩy các bên nỗ lực tìm tiếng nói chung, trước tiên là thúc đẩy việc thực hiện Tuyên bố DOC, tiến đến một Bộ Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông, tạo khung pháp lý để trao đổi một cách khách quan và thành thật về quy chế các đảo đá của các quần đảo ở Biển Đông, một trong những chìa khóa then chốt để giải quyết hòa bình các tranh chấp Biển Đông? Câu trả lời phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí của các bên.

Công hàm ngày 07/5/2009 của Trung Quốc phản đối Báo cáo chung Việt Nam – Ma-lai-xia về ranh giới ngoài thềm lục địa

Số CML/17/2009 – New York, ngày 07 tháng 5 năm 2009

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc trân trọng kính chào Ngài Tổng Thư ký Liên hợp Quốc và liên quan đến Báo cáo chung của Ma-lai-xia và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (sau đây được gọi là Ủy ban) ngày 06 tháng 5 năm 2009 về ranh giới Thềm lục địa vượt quá 200 hải lý, xin nêu quan điểm như sau:

Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo tại Biển Đông và vùng nước phụ cận, có quyền chủ quyền tài phán đối với vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy (xem bản đồ đính kèm). Đây là lập trường nhất quán của chính phủ Trung Quốc và được cộng đồng quốc tế biết đến rộng rãi.

Thềm lục địa ngoài 200 hải lý như được nêu trong Báo cáo chung giữa Ma-lai-xia và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại Biển Đông. Theo Điều 5 (a), Phụ lục I về các Quy tắc thủ tục của Ủy ban Ranh giới thề, lục địa, Chính phủ Trung Quốc nghiêm túc yêu cầu Ủy ban không xem xét Báo cáo chung giữa Ma-lai-xia và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã thông báo cho Ma-lai-xia và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên trường trên.

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc yêu cầu gửi công hàm này tới mọi thành viên của Ủy ban, tất cả nước thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển cũng như mọi thành viên của Liên hợp quốc.

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc xin gửi lời chào trân trọng nhất tới Ngài Tổng Thư ký Liên hợp quốc.

Ngài BAN KI-MOON

Tổng Thư ký Liên hợp quốc NEW YORK

Công hàm ngày 07/5/2009 của Trung Quốc phản đối Báo cáo chung Việt Nam – Ma-lai-xia về ranh giới ngoài thềm lục địa

Số CML/18/2009 – New York, ngày 07 tháng 5 năm 2009

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc xin kính chào Ngài Tổng Thư ký Liên hợp quốc và liên quan đến Báo cáo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (sau đây được gọi là Ủy ban) ngày 07 tháng 5 năm 2009 về ranh giới ngoài thềm lục địa (sau đây được gọi là Ủy ban) ngày 07 tháng 5 năm 2009 về ranh giới ngoài thềm lục địa vượt quá 200 hải lý, xin nêu quan điểm như sau:

Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo tại Biển Đông và vùng nước phụ cận, có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như đáy biển và lòng đất dưới đáy (xem bản đồ đính kèm). Đây là lập trường nhất quán của Chính phủ Trung Quốc và được cộng đồng quốc tế biết đến rộng rãi.

Báo cáo trên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc tại Biển Đông. Điều 5 (a), Phụ lục I về các Quy tắc thủ tục của Ủy ban Ranh giới thềm lục địa, Chính phủ Trung Quốc nghiêm túc yêu cầu Ủy ban không xem xét Báo cáo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã thông báo cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam lập trường trên.

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc yêu cầu gửi công hàm này tới mọi thành viên của Ủy ban, tất cả nước thành viên của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển cũng như mọi thành viên của Liên hợp quốc.

Phái đoàn Thường trực của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên hợp quốc xin gửi lời chào trân trọng nhất tới Ngài Tổng thư ký Liên hợp quốc.

Ngài BAN KI-MOON

Tổng Thư ký Liên hợp quốc NEW YORK 

Bộ Ngoại giao - UB Biên giới Quốc gia