Theo kịch bản biến đổi khí hậu cập nhật năm 2020, nếu mực nước biển dâng 1m, gần một nửa diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sẽ có nguy cơ bị ngập. Trong đó, Cà Mau là tỉnh ngập nặng nhất với tỷ lệ ngập gần 80%.
Nguyên nhân tăng nguy cơ ngập
So với kịch bản công bố năm 2016, diện tích có nguy cơ ngập của ĐBSCL trong kịch bản cập nhật tăng lên đáng kể (47, 29% so với 39,4%). Điều này sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững của quy hoạch vùng, quy hoạch các địa phương trong thời gian tới.
Ngoài Cà Mau có diễn tích ngập gần 80% thì một số tỉnh có tỷ lệ ngập cao trên 50% - 75% là Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang. Với đặc trưng khu vực ĐBSCL có nền địa hình thấp nhất trên cả nước, nguy cơ ngập vì nước nước biến dâng do biến đổi khí hậu (BĐKH) có thể gia tăng do cộng hưởng của các yếu tố khác như nâng hạ địa chất, thay đổi địa hình, sụt lún, thủy triều, nước dâng do bão.
Nhóm nguyên nhân tự nhiên như dịch chuyển các mảng kiến tạo, quá trình nén chặt của các lớp trầm tích trẻ, hoạt động tân kiến tạo, quá trình bóc mòn, bồi tụ bề mặt địa hình… Nhóm nguyên nhân do con người tác động như khai thác nước ngầm quá mức, quá trình đô thị hóa tăng tải trọng trên nền đất yếu, rung động do các hoạt động giao thông.
PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà, Phó Viện trưởng Viện Khoa học KTTV&BĐKH cho biết, số liệu địa hình ĐBSCL đưa vào Kịch bản BĐKH có độ tin cậy cao, được cập nhật đến năm 2020 từ dự án Chính phủ “Thành lập cơ sở dữ liệu nền thông tin địa lý ở tỷ lệ 1:2.000 và 1:5.000 các khu vực đô thị, khu vực công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm”, do Cục Đo đạc, Bản đồ và thông tin địa lý (Bộ TN&MT) hoàn thành. Đồng thời, kịch bản cũng xét đến xu thế dâng cao của mực nước biển trung bình toàn cầu do BĐKH.
Bên cạnh đó, Kịch bản đã đưa ra dự tính các mức thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, các hiện tượng cực đoan trên cơ sở các kịch bản phát thải, thấp, vừa, cao. Trên cơ sở này, các nhà hoạch định chính sách thấy rõ những nguy cơ, rủi ro gây ra do BĐKH tương ứng với các mức độ đầu tư phát triển để đưa ra những quyết sách phù hợp, hoặc đưa ra những giải pháp phù hợp.
ĐBSCL có nguy cơ ngập cao khi nước biển dâng 1m
Cơ sở để định hướng giải pháp
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, thách thức lớn nhất mà ĐBSCL phải đối mặt là từ các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở phía thượng nguồn sông Mê Công và nội tại của ĐBSCL. Tình trạng sụt lún đất do khai thác nước ngầm quá mức, sự gia tăng xâm nhập mặn, hạn hán… sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa.
Những vấn đề về xung đột giữa nhu cầu nước ngọt cho nông nghiệp và nhu cầu nước mặn, nước lợ để nuôi tôm đang diễn ra ở nhiều nơi. Việc phát triển hạ tầng chống lũ, thủy lợi, giao thông đô thị, khu công nghiệp… đã làm biến đổi sâu sắc chế độ lũ như vốn có trước đây. Việc phát triển hệ bờ bao, khu dân cư vượt lũ… làm giảm không gian chứa lũ, thoát lũ làm gia tăng nguy cơ ngập, lụt ở nhiều khu vực. Diện tích chứa lũ giảm đồng thời mực nước biển dâng sẽ làm tăng mực nước lũ ở khu vực trung tâm ĐBSCL trong thời gian dài.
Ở các khu vực trung và hạ lưu, do phát triển công nghiệp và đô thị hóa cao, diện tích chứa lũ giảm và nước biển dâng làm tăng nguy cơ ngập lũ. Cung cấp nước sạch chỉ đảm bảo được cho 60-65% dân số đô thị và tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều đối với nông thôn. Bên cạnh đó, nguồn nước để cấp nước ở các khu vực nông thôn cũng đang phải đối mặt với hai vấn đề lớn là mặn và ô nhiễm.
Từ thực tế trên, những khu vực có nguy cơ ngập cao trong kịch bản BĐKH cần được nghiên cứu kĩ lưỡng, từ đó định hướng để đầu tư xây dựng, cải tạo hệ thống thoát nước; cải tạo và chống lấn chiếm thu hẹp hồ ao, sông, kênh trong đô thị; nạo vét khơi thông dòng chảy; xây dựng, củng cố, nâng cấp hệ thống đê bao, đê xung yếu, đường ven biển, bờ ngăn chống lũ.
Đây không chỉ là công việc của các nhà hoạch định chính sách, mà mọi tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đều có thể khai thác thông tin từ kịch bản để đánh giá tác động, quản lý rủi ro cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Từ đó, có phương án, kế hoạch thích ứng cụ thể, giảm các tác động tiêu cực từ BĐKH, nước biển dâng trong tương lai.
Theo PGS.TS. Phạm Thị Thanh Ngà, việc triển khai, xây dựng và thực hiện các giải pháp ứng phó với BĐKH không nhất thiết phải tiến hành đại trà ở quy mô thế kỷ, mà cần phải có sự phân kỳ. Cần phải xác định được mức độ ưu tiên dựa trên yêu cầu thực tiễn, nguồn lực có được trong từng giai đoạn để lựa chọn kịch bản phù hợp và tối ưu nhất.
Khánh Ly