Kỳ 7: BA TRANH CHẤP VÀ BA MỤC TIÊU: TRUNG QUỐC VÀ BIỂN ĐÔNG
Giáo sư Peter Dutton Viện Nghiên cứu về Hàng hải Trung Quốc Học viện Hải quân Mỹ
Việc gia tăng cạnh tranh gần đây giữa Trung Quốc và các nước láng giềng của nước này về chủ quyền, tài nguyên, và an ninh trong vùng Biển Đông đã thu hút sự chú ý của các lãnh đạo ngoại giao và quân sự Mỹ, những người luôn tìm cách thúc đẩy sự ổn định và an ninh ở các vùng biển có tính quan trọng toàn cầu này. Khi các lãnh đạo Mỹ thảo luận những chính sách và chiến lược hỗ trợ ổn định khu vực, một số đã mô tả bản chất các tranh chấp phức tạp ở vùng Biển Đông như là một nút rối duy nhất của những thử thách đầy cam go. Trên thực tế, có thể phân chia thành ba loại chấp, mỗi loại đều có những bên liên quan, luật chơi và hoạt động chính trị riêng. Thật không may, các chính quyền ở khu vực đang theo đuổi những giải pháp một mất – một còn cho ba tranh chấp này dựa trên những tuyên bố cạnh tranh về chủ quyền và thẩm quyền pháp lý riêng biệt. Một phân tích tỉ mỉ về bản chất của mỗi tranh chấp đã mở ra những cơ hội cho nhiều cách thức hữu ích để giải quyết vấn đề “các bên cùng thắng” dựa trên những lợi ích chung.
- Ba tranh chấp
Có ba loại tranh chấp cơ bản ở Biển Đông, mỗi loại đều có các bên liên quan, luật chơi, hoạt động chính trị và các vấn đề an ninh liên quan. Những tranh chấp này đã dẫn đến sự tái diễn những căng thẳng và xung đột trong khoảng bốn mươi năm. Những sự cố nổi bật về chủ quyền bao gồm cuộc tấn công của Trung Quốc vào các lực lượng của Việt Nam Cộng hòa tại quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, Trung Quốc tấn công vào Quân đội Việt Nam gần đảo Chữ Thập (Fiery Cross Reef) vào năm 1988, và vào năm 1995, Philippin đã hất cẳng Quân đội Trung Quốc khỏi Đảo Vành Khăn (Mischief Reef). Kết quả của hàng loạt các sự kiện này là sự hợp nhất của một lập trường chính trị thống nhất của ASEAN về phản đối hành vi của Trung Quốc và để giảm bớt căng thẳng với các nước láng giềng, Trung Quốc chấp nhận bản Tuyên bố năm 2002 với với ASEAN về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, trong đó bao gồm thỏa thuận để “giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý bằng phương pháp hòa bình mà không cần đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực…”. Điều tiếp theo chính là 15 năm tương đối yên tĩnh trong khu vực Đông Nam Á qua các chương văn hóa, thương mại, cơ sở hạ tầng và kinh tế hào phóng.
Mỹ nhiều lần bày tỏ thái độ trung lập đối với các kết quả liên quan đến các tranh 2 về chủ quyền và thẩm quyền pháp lý, miễn là tất cả các bên tiếp tục theo đuổi các biện pháp hòa bình trong việc giải quyết tranh chấp.
Sự ổn định này đã bị phá vỡ bởi một loạt các hành động hiếu chiến của Trung Quốc. Sự bùng nổ căng thẳng gần đây ở Biển Đông lại bắt đầu khi Trung Quốc gây áp lực đối với Việt Nam và một số công ty dầu mỏ về việc thăm dò và khoan dầu ngoài khơi trên bờ biển của Việt Nam. Như Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Scot Marciel đã xác nhận trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện vào tháng 7 năm 2009 rằng: “Bắt đầu từ mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã yêu cầu một số công ty dầu khí của Mỹ và nước ngoài ngừng việc khai thác với các đối tác Việt Nam ở Biển Đông hoặc sẽ phải đối mặt với hậu quả khôn lường trong các giao dịch kinh doanh của họ với Trung Quốc”.
Cuộc điều trần ở Thượng viện đã được tổ chức trong bối cảnh của “Sự kiện tàu Impeccable” tháng 3 năm 2009, trong đó một tàu nghiên cứu của Hải quân Mỹ đã bị những “ngư dân” Trung Quốc tấn công một cách hung hãn ở khoảng 70 hải lý ngoài đảo Hải Nam, với sự hỗ trợ của các tàu dân sự và quân sự của Trung Quốc.
Những hành động này của Trung Quốc đã gây ra sự tái diễn căng thẳng trong khu vực. Đáp lại chính sách mới của Trung Quốc, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã phát biểu tại Diễn đàn Khu vực ASEAN hồi tháng 7 năm 2010 như sau:
“Mỹ ủng hộ tiến trình ngoại giao hợp tác của tất cả các bên nhằm giải quyết những tranh chấp lãnh thổ khác nhau mà không có sự cưỡng ép nào. Chúng tôi khuyến khích các bên tiến tới thỏa thuận cho một quy tắc ứng xử toàn diện. Mỹ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải, quyền tiếp cận mở đối với các vùng biển chung của châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông”.
Cho đến thời điểm này, thuộc tính chung duy nhất của mọi tranh chấp ở Biển Đông đó là Trung Quốc luôn là bên có liên quan đến tất cả các tranh chấp này. Tuy nhiên, sự chuyển biển của Trung Quốc trong năm 2009 theo hướng quyết đoán, thậm chí hung hãn – đặc biệt là trong nỗ lực kiểm soát các hoạt động hải quân của Mỹ ở Biển Đông – đã gây ra sự chú ý và mối quan tâm của Mỹ đến cả ba loại tranh chấp này. Nhằm tìm một con đường để trở về trạng thái ổn định khu vực như mong muốn, việc xem xét các thuộc tích của từng loại tranh chấp là vô cùng hữu ích.
Chủ quyền
Những tranh chấp về chủ quyền liên quan đến vấn đề trong đó các quốc gia ven biển có quyền thực thi chủ quyền trên lãnh thổ tự nhiên của các đảo ở Biển Đông. Vấn đề này liên quan đến Trung Quốc, Việt Nam, Ma-lai-xia, Phi-líp-pin, Đài Loan và có thể cả Bru-nây. Năm 1992, Trung Quốc ra Luật Lãnh hải và Vùng tiếp giáp, mà cụ thể là tuyên bố chủ quyền đối với từng nhóm đảo trong Biển Đông – quần đảo Pratas (Đông Sa), quần đảo Hoàng Sa (Xisha), Macclesfield (Trung Sa), và quần đảo Trường Sa (Nansha). Vào năm 1947, Chính phủ Trung Hoa dân quốc bắt đầu xuất bản đồ với một loạt “đường kẻ hình chữ U” trong vùng Biển Đông để phân định biên giới biển của mình. Chính phủ Trung Quốc lặp đi lặp lại đặc điểm bản đồ này sau khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền ở đại lục vào năm 1949 và ngày nay vẫn còn được mô tả trên các bản đồ xuất bản tại Trung Quốc và Đài Loan. Tuy nhiên, bản chất của yêu sách của Trung Quốc đối với việc mở rộng vùng biển và hàng loạt đảo, bãi cát ngầm, bãi đá và đảo nhỏ nằm bên trong chính nét gạch của “đường chữ U” (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”) chưa bao giờ được định rõ. Trong số các học giả và quan chức Trung Quốc, xuất hiện bốn trường phái tư tưởng chủ đạo về ý nghĩa của đường kẻ này, nhưng Chính phủ Trung Quốc duy trì một chính sách nghiên cứu mơ hồ về ý nghĩa của đường kẻ gồm chín nét này.
Các vùng biển chủ quyền
Một số nhà phân tích chính sách của Trung Quốc cho rằng vùng biển trong đường kẻ hình chữ U nên được xem là vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, tùy theo đo đạc đầy đủ của cơ quan chức năng của chính phủ mà có thể gọi là nội thủy hoặc lãnh hải. Ví dụ, một nhóm các nhà phân tích quốc phòng cấp cao Trung Quốc mô tả các lợi ích ngoài khơi của Trung Quốc nằm trong khoảng 200 hải lý (về phía Đông) và 1.600 hải lý (về phía Nam)” hoặc xấp xỉ đến 4 độ vĩ Bắc được công bố trong báo cáo năm 1935. Họ xem những “vùng biển trong phạm vi quyền tài phán này của Trung Quốc… [là] khu vực mở rộng thuộc chủ quyền quốc gia của Trung Quốc”.